Nguyên tác: The Robe of Peace
truyện ngắn O Henry
https://americanliterature.com/author/o-henry/short-story/the-robe-of-peace

Johnny Bellchambers, người nổi tiếng, thuộc về nhóm người giàu sang thực sự. Không có bất kỳ sự phô trương thời thượng, họ không phải gắng sức thu hút sự chú ý bằng cách khoe khoang giàu có một cách lập dị và thể hiện rằng anh ta vẫn hoàn toàn quen thuộc trong tất cả mọi thứ đã tạo ra ánh sáng vẻ vang cho địa vị cao của anh ta trong bậc thang xã hội.
Đặc biệt là anh ấy tỏa sáng trong vấn đề ăn mặc. Trong chuyện này, anh ta là nỗi thất vọng của những kẻ bắt chước. Luôn chính xác, chải chuốt, chỉnh chu và sở hữu một tủ quần áo không giới hạn, anh được thừa nhận là người đàn ông ăn mặc đẹp nhất ở New York, và do đó, đẹp nhất nước Mỹ. Không một thợ may nào ở xứ Gotham (tiếng thông tục gọi New York) lại không coi là một ân huệ quý giá khi được đặc ân may quần áo cho Bellchambers dù không cần nhận một xu tiền công. Khi anh ấy mặc chúng, chúng sẽ là một quảng cáo vô giá. Quần tây là niềm đam mê đặc biệt của anh ấy. Ở đây không có gì hoàn hảo mà anh ấy không nhận thấy. Anh ta sẽ phát hiện chiếc quần hơi có đốm vết nhanh như khi anh ta nhìn thấy một vết nhăn. Anh ta giữ một người thợ trong căn hộ của mình luôn bận rộn với việc cung cấp nguồn trang phục dồi dào cho mình. Bạn bè của anh ấy nói rằng ba giờ là thời gian tối đa anh ấy sẽ thay bộ đồ khác.
Những bí ẩn nối tiếp nhau liên tục trong một thành phố lớn đến nỗi công chúng đọc sách và những người bạn của Johnny Bellchambers đã không còn ngạc nhiên trước sự biến mất đột ngột không rõ nguyên nhân của anh gần một năm trước. Bí ẩn đặc biệt này hiện đã được làm sáng tỏ, nhưng lời giải lạ lùng và khó tin đối với tâm trí của một người bình thường đến nỗi chỉ một số ít người riêng có liên hệ chặt chẽ với Bellchambers mới tin chắc hoàn toàn.
Bellchambers biến mất rất đột ngột. Trong ba ngày, sự vắng mặt của anh ta không khiến bạn hữu náo động, và sau đó họ mới bắt đầu thực hiện các phương pháp tìm hiểu thông thường. Tất cả chúng đều thất bại. Anh hoàn toàn không để lại dấu vết. Sau đó, việc tìm kiếm động cơ mất tích đã được bắt đầu, nhưng không ai tìm thấy chút gì. Anh không có kẻ thù, không mắc nợ, không có phụ nữ. Anh có vài nghìn đô la tín dụng trong ngân hàng đủ xài. Anh chưa bao giờ thể hiện bất kỳ xu hướng nào như tâm thần lập dị; trên thực tế, anh ấy là người đặc biệt điềm tĩnh và có tính khí cân bằng. Mọi phương tiện để truy tìm người đàn ông biến mất đã được tận dụng, nhưng vô ích. Đó là một trong những trường hợp như vậy – ngày càng nhiều hơn vào những năm gần đây – khi mà những người đàn ông dường như đã biến mất tăm như ngọn lửa của một cây nến thậm chí không để lại một vệt khói làm bằng chứng.
Vào tháng Năm, Tom Eyres và Lancelot Gilliam, hai người bạn cũ của Bellchambers, đã thực hiện một chuyến đi nhỏ sang lục địa bên kia. Trong khi đi tìm kiếm ở Ý và Thụy Sĩ, một ngày nọ, họ tình cờ nghe được tin về một tu viện trên dãy Alps ở Thụy Sĩ hứa hẹn một điều gì đó ngoài những điểm thu hút khách du lịch bình thường. Tu viện gần như không thể đến được đối với những người ngắm cảnh bình thường, nằm trên một đỉnh núi cực kỳ hiểm trở và dựng đứng. Những điểm hấp dẫn mà nó sở hữu không được quảng cáo, trước tiên, là một thứ độc quyền và thiêng liêng được tạo ra bởi các thầy tu được cho là vượt xa dòng tu Benedict và dòng thánh Bruno. Tiếp theo là một chiếc chuông đồng khổng lồ được đúc nguyên chất và chính xác đến nỗi nó đã không ngừng phát ra âm thanh kể từ lần đầu tiên rung lên cách đây ba trăm năm. Cuối cùng, người ta khẳng định rằng chưa từng có người Anh Mỹ nào đặt chân vào bên trong các bức tường của nó. Eyres và Gilliam quyết định rằng cần phải điều tra xác minh ba tin đồn này.
Họ mất hai ngày với sự hỗ trợ của hai người dẫn đường để đến được tu viện thánh Gondrau. Ngôi tu viện đứng trên một vách đá lạnh cóng, gió quét với tuyết chất đống xung quanh nó thành những khối trôi dạt thay đổi không lường được. Họ được những người tín hữu anh em có nhiệm vụ tiếp đãi những vị khách không thường xuyên một cách hiếu khách. Họ uống loại rượu bổ quý giá nhưng hiếm khi thấy nó mạnh mẽ và hứng khởi lên. Họ lắng nghe tiếng chuông vĩ đại, không ngừng vang vọng và biết rằng họ là những du khách tiên phong trong những bức tường đá xám đó, vượt qua những người nói tiếng Anh mà đôi chân không nghỉ của họ đã giẫm lên gần như mọi ngóc ngách trên trái đất.
Vào lúc ba giờ chiều, họ đến nơi, hai chàng trai New York đứng lại với Cristofer tín hữu tu viện tốt bụng trong hành lang lớn, lạnh lẽo của tu viện để xem các tu sĩ đi ngang qua trên đường đến nhà ăn. Họ đi chậm rãi, bước đi từng cặp hai người một, cúi đầu, giẫm chân không ồn ào trên những lá cờ bằng đá thô ráp. Khi đoàn người chậm rãi đi qua, Eyres bất ngờ nắm chặt cánh tay Gilliam. “Nhìn này,” anh thì thầm, háo hức, “nhìn cái người đang đối diện với cậu bây giờ – người ở phía bên này, với bàn tay đặt ở thắt lưng – nếu đó không phải là Johnny Bellchambers thì tôi đã không bao giờ nhìn thấy anh ấy!”.
Gilliam nhìn bạn và nhận thấy chiếc kính thời trang đã mất.
“Trời đất ơi,” anh ta nói, ngạc nhiên, “anh Bell già đang làm gì ở đây hả? Tommy, chắc chắn không thể là anh ta! Chưa bao giờ nghe nói về việc Bell rẽ bước theo đạo giáo. Sự thật là, tôi đã nghe anh ta nói những chuyện, như là một cỗ xe tứ mã hầu như không bị trói buộc nó sẽ đưa anh ta ra hầu tòa trước bất kỳ nhà thờ nào”.
“Không nghi ngờ gì nữa, đó là Bell,” Eyres nói, chắc chắn đấy, “nếu không thì tôi đang rất cần một bác sĩ nhãn khoa. Nhưng hãy nghĩ đến Johnny Bellchambers, chánh án tối cao của hoàng gia trang phục thanh nhã và ông thánh sư Ấn Độ của món trà hồng, ở đây nơi cái Kho Lạnh Lẽo, làm lễ sám hối trong một chiếc áo choàng tắm xỉn màu! Tôi không thể tương tượng được. Hãy hỏi cậu bé lớn tuổi vui tính đang làm những việc tôn kính kia”.
Chúng tôi khẩn khoản nài nỉ anh tín hữu Cristofer cung cấp thông tin. Vào thời điểm đó, các nhà sư đã đi vào nhà ăn. Anh không thể kể về người mà chúng tôi gọi tên là Bellchambers. A, những người anh em tín hữu của Thánh Gondrau đã từ bỏ tên họ thế gian của họ khi tuyên thệ. Các quý ông muốn nói chuyện với một trong những người tín hữu anh em ư? Nếu khách đến nhà ăn và chỉ ra người họ muốn gặp, vị trụ trì đáng kính có thẩm quyền không nghi ngờ gì thì sẽ cho phép điều đó.
Eyres và Gilliam đi vào phòng ăn và chỉ cho tín hữu Cristofer người đàn ông mà họ đã thấy. Vâng, đó là Johnny Bellchambers. Họ đã thấy rõ khuôn mặt của anh lúc này, khi anh ngồi giữa những người tín hữu lầm lì, không bao giờ nhìn lên, uống nước luộc thịt trong một cái bát thô màu nâu.
Hai du khách được phép nói chuyện với một trong những tín hữu sau khi được sư trụ trì đồng ý, và họ đợi anh ta đến trong phòng tiếp tân. Khi anh ta đến, bước nhẹ nhàng trên đôi dép của mình, cả Eyres và Gilliam đều nhìn anh ta với vẻ bối rối và kinh ngạc. Đó là Johnny Bellchambers, nhưng anh ấy có một vẻ mặt khác. Trên khuôn mặt nhẵn nhụi của anh ta là biểu hiện của sự bình yên không gì sánh được, của sự thành đạt đến say mê, của hạnh phúc trọn vẹn và hoàn hảo. Hình dáng anh ta thẳng thắn một cách kiêu hãnh, đôi mắt anh ta ánh lên một tia sáng thanh thoát và tao nhã. Anh ấy vẫn gọn gàng và chỉnh chu như những ngày xưa ở thành New York, có điều bây giờ anh ấy ăn mặc khác làm sao! Bây giờ anh ta dường như chỉ mặc một bộ quần áo duy nhất – một chiếc áo choàng dài bằng vải thô màu nâu, được thu gọn lại bằng một sợi dây ở thắt lưng, và rơi xuống thành những nếp gấp thẳng, lỏng lẻo gần đến chân. Anh ta bắt tay những vị khách của mình với thái độ thoải mái và duyên dáng như xưa. Nếu có bất kỳ sự bối rối nào trong cuộc gặp đó, thì Johnny Bellchambers đã không biểu lộ ra. Căn phòng không có chỗ ngồi; họ đứng mà trò chuyện.
“Rất vui được gặp anh, anh bạn già,” Eyres nói, hơi ngượng nghịu.”Tôi không mong tìm thấy anh ở tận đây. Dù sao thì cũng không phải là một ý kiến tồi. Xã hội là một thứ giả tạo kinh khủng. Đó phải là một sự giải tỏa để rũ bỏ cơn lốc phù phiếm chóng mặt và lui về để… suy ngẫm và – ờ – cầu nguyện và hát thánh ca, và những thứ gì đó.
“Ồ, thôi đi, Tommy,” Bellchambers vui vẻ nói. “Đừng sợ rằng tôi sẽ đi vòng quanh cái đĩa. Tôi đã xem xét kỹ những điều gì làm nên sự thanh thản của những chàng trai già này, vì họ là quy tắc. Tôi mang tên là “Tín hữu Ambrose” ở đây, bạn biết đấy. Tôi chỉ có mười phút để nói chuyện với các bạn… Bạn đang mặc áo gi-lê kiểu mới, phải không, Gilliam? Người ta đang mặc những thứ đó ở Broadway hả ? “.
“Vẫn là Johnny cũ ngày xưa,” Gilliam vui vẻ nói. “ôi quỷ thiệt – Ý tôi là tại sao…Ồ, quỷ tha ma bắt thiệt ! Cậu làm vậy để làm gì, ông bạn già?”.
“Hãy lột bỏ áo choàng tắm đi,” Eyres gần như rưng rưng nước mắt nài nỉ “và quay trở lại với chúng tôi. Đám đông già sẽ rất cuồng nhiệt khi gặp cậu. Đây không phải là con đường của cậu, Bell à. Tôi biết nửa tá cô gái đã mặc bộ đồ thô may bằng xơ vỏ cây liễu trong lặng lẽ khi cậu làm tất cả chúng tôi bàng hoàng không thể hiểu được. Hãy nộp đơn từ bỏ đi, hoặc nhận một giấy giải trừ tôn giáo, hoặc bất cứ điều gì cậu phải làm để được ra khỏi cái nhà máy nước đá này. Cậu sẽ mắc bệnh nhiều đàm ở đây thôi, Johnny… và…Chúa ơi! Cậu không mang đôi tất nào ! “.
Bellchambers nhìn xuống đôi chân đi dép của mình và mỉm cười.
“Các bạn không hiểu,” anh nói, nhẹ nhàng. “Thật tử tế khi bạn muốn tôi quay trở lại, nhưng cuộc sống cũ sẽ không bao giờ biết đến tôi nữa. Tôi đã đạt được mục tiêu tất cả những tham vọng của mình ở nơi đây. Tôi hoàn toàn hạnh phúc và mãn nguyện. Tôi sẽ ở lại đây cho những ngày còn lại của mình. Bạn thấy chiếc áo choàng mà tôi mặc này không? “. Bellchambers thận trọng chạm vào chiếc áo được buông thẳng: “Cuối cùng thì tôi cũng đã tìm thấy thứ gì đó không bó dính vào đầu gối. Tôi đã đạt được…”.
Vừa lúc đó, tiếng chuông đồng lớn trầm sâu vang khắp tu viện. Chàng “tín hữu Ambrose” cúi đầu, quay người và rời khỏi phòng mà không nói thêm một lời nào. Một cái vẫy tay nhẹ của anh khi anh đi qua ô cửa bằng đá như để nói lời từ biệt với những người bạn cũ. Họ rời tu viện và không gặp lại anh nữa.
Và đấy là câu chuyện mà Tommy Eyres và Lancelot Gilliam mang về từ chuyến lang thang châu Âu mới nhất của họ.
Hết
LỜI BÀN
Đoạn kết nhà văn thoáng nở một nụ cười hài hước:
“Tôi chỉ có mười phút để nói chuyện với các bạn…Bạn đang mặc áo gi lê kiểu mới, phải không, Gilliam? Người ta đang mặc những thứ đó ở Broadway hả ? “.
Trả lời